Hàn Tín (9) Trận Bối Thủy, 3 vạn quân Hán đánh bại 20 vạn quân Triệu

Tác giả: Thiên Phong | Cập nhật: 15/03/2024
Danh mục: Huyền Sử

Hàn Tín đánh bại Ngụy và nhổ được cái gai đâm sau lưng quân Hán, nhưng ở khu vực phía bắc sông Hoàng Hà, các nước chư hầu như nước Đại, Triệu, Yên, Tề, vẫn hùng cứ một phương, cùng với nước Sở chống lại quân Hán. Quân Hán bất lợi về thế trận phía chính diện, Huỳnh Dương đã hai lần thất thủ. Thế trận giằng co gian khổ khiến Lưu Bang đã có lần muốn từ bỏ Huỳnh Dương.

Hàn Tín phân tích tình hình khách quan và chủ động xin được đem ba vạn binh mã lên phía bắc để thảo phạt Yên, Triệu, Đại, Tề, và cắt đứt đường vận chuyển lương thảo giữa bọn họ và nước Sở. Nếu như thu phục được các nước chư hầu này, quân Hán sẽ có thể giáp công hai mặt, đánh gọng kìm vào phía quân Sở. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Trung Quốc, Hàn Tín đã đề xuất một chính sách chiến lược phòng thủ chính diện lâu dài, kết hợp tấn công bên sườn. Lưu Bang lúc ấy đã không thể lý giải được chiến lược cao siêu này, nhưng cũng không có lý do gì để phản đối, nên liền gật đầu đồng ý. Ông đặt nước Ngụy thành quận Hà Đông và cho Trương Nhĩ làm trợ thủ cho Hàn Tín, cũng là để giám sát cử động của Hàn Tín.

Hàn Tín dẫn binh lên phía bắc. Mục tiêu tấn công đầu tiên là nước Đại. Một năm trước, Lưu Bang yêu cầu nước Triệu xuất binh tấn công Hạng Vũ, và Trần Dư đưa ra điều kiện phải xử tử Trương Nhĩ thì mới đồng ý xuất binh. Nhưng Trương Nhĩ là thân tín quan trọng của Lưu Bang, thế là Lưu Bang tìm một người giống Trương Nhĩ và xử tử, thế là lừa được Trần Dư xuất quân trợ chiến. 

Sau đó, Trần Dư phát hiện mình đã bị lừa, thì liền phản bội Lưu Bang rồi đầu quân cho Hạng Vũ. Trần Dư trở thành Vua nước Đại, nhưng lại không ở nước Đại, mà chạy đến nước Triệu làm tướng quốc, giúp Triệu Vương điều hành đất nước, việc chính sự của nước Đại thì do tướng quốc Hạ Thuyết làm thay. Nước Đại là nước nhỏ binh yếu, không chịu nổi một trận. Hàn Tín trực diện tấn công, đánh bại quân nước Đại, bắt sống Hạ Thuyết và hạ xong nước Đại.

Nhưng nước Triệu và nước Đại lại là một thể, mặc dù có hai tên, nhưng thực chất là cùng một đất nước. Nước có thực lực chính là Triệu. Để bảo toàn chiến thắng, tất phải diệt Triệu. Lúc này, Lưu Bang lại cử người đi tiếp nhận quân lính để bổ sung cho nhu cầu chiến trường Huỳnh Dương. Lần này, không chỉ có các tù binh bị bắt đi, mà Lưu Bang dùng kế rút củi đáy nồi, cả đại tướng Tào Tham và cả đội quân của ông ta cũng được điều chuyển về Huỳnh Dương.

Hàn Tín không muốn nửa đường phí công, bèn xin phép lập quân tại chỗ, tiếp tục bắc tiến đánh Triệu, Lưu Bang khó lòng từ chối, bèn phân bổ một lượng quân nhỏ cho Hàn Tín. Tuy nhiên, đợi khi Hàn Tín tổ chức xong binh mã, thì đã bỏ lỡ cơ hội chiến đấu tốt nhất, và quân Triệu đã bài binh phòng thủ, sẵn sàng đợi trận.

Vùng đất mà nước Triệu chiếm giữ là khu vực dễ thủ khó công. Dãy Thái Hành sơn cao lớn và hiểm trở, là một bức thành che chắn tự nhiên. Lối duy nhất để tiến vào nước Triệu là cửa ải Tỉnh Hình, đây là một trong tám cửa ải nhỏ hẹp của Thái Hành sơn. Nơi đây là hẻm núi lớn, kẹp giữa vách núi sừng sững hai bên, con đường hẹp, xe không thể đi song song, ngựa không thể xếp hàng chạy, một người giữ ải, vạn người khó qua. 

Để đi qua hẻm núi lớn này, đội quân phải xếp thành một hàng dài, từ đầu đến cuối không thể ứng cứu nhau. Chỉ cần quân Triệu đặt một đội quân yếu ớt trấn giữ ở lối ra đầu kia, kẻ địch bên ngoài sẽ khó có thể xâm nhập vào đất Triệu. Hơn nữa, còn có một con sông chảy xiết ở lối ra của cửa Tỉnh Hình, điều này cho thấy rằng, sau khi vào đất Triệu rồi, thì muốn rút lui từ cửa Tỉnh Hình cũng không hề dễ dàng.

Trần Dư lập kế hoạch lớn, muốn một mẻ hốt gọn quân của Hàn Tín, nên chủ quan mà không hề đưa quân đến trấn giữ cửa ải. Trần Dư tập trung đại quân hai mươi vạn binh ở hơi xa phía đông của cửa ải, bày sẵn thế trận chờ quân địch, đợi quân của Hàn Tín hoàn toàn vượt qua cửa Tỉnh Hình, rồi sẽ lấy thế như trẻ tre, tiêu diệt toàn bộ quân Hán. Kế hoạch này có vẻ rất hoàn hảo, nếu đánh bại được Hàn Tín, thì uy danh của Trần Dư sẽ cao vời vợi. Dù gì thì Hàn Tín cũng chỉ là một kẻ nhà quê, miệng còn hôi sữa.

Nhưng một kế hoạch hoàn hảo như vậy đã bị một cao nhân phát hiện ra chỗ sơ hở. Người này chính là thuộc hạ của Trần Dư, là Quảng Vũ tướng Quân Lý Tả Xa (cháu của đại tướng Lý Mục).

Lý Tả Xa cho rằng Hàn Tín một đường thừa thắng mà đến nên khí thế là không thể ngăn cản. Có điều, Hàn Tín phải vận chuyển lương thực từ xa xôi ngàn dặm, binh sĩ tất phải chịu đói, lại phải chặt củi nấu cơm, lính tráng chắc chắn không được ăn no. 

Đây chính là nhược điểm lớn của quân Hán. Lối đi ở cửa ải Tỉnh Hình nhỏ hẹp, lương thảo cho quân Hán sẽ tụt lại phía sau. Nếu như bố trí binh mã từ đường nhỏ cắt đứt lương thảo, đợi quân đội Hàn Tín đi qua cửa Tỉnh Hình, lại phái quân giữ chặt cửa ải, không cho binh mã rút lui, thì quân Hán sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan, tiến không vào được Triệu, lùi không thể quay về. Không đầy mười ngày nữa, quân Hán sẽ không cần đánh mà tự phá. 

Tuy nhiên, Trần Dư ​​cho rằng “Nghĩa binh thì không dùng mưu gian kế lạ”, anh hùng là phải đường đường chính chính quyết đấu, phương pháp của Lý Tả Xa đã bị gạt sang một bên.

Hàn Tín khi biết chuyện này, trong lòng rất vui, liền lập tức bố trí hành động. Vào lúc nửa đêm, ông cho hai nghìn kỵ binh mang theo cờ đỏ của quân Hán đến ẩn nấp gần doanh trại quân Triệu, lại lệnh cho quân sĩ còn lại ăn sáng trước, rồi chuẩn bị xuất phát, và còn dặn mọi người sau khi đánh bại quân Triệu sẽ lại ăn sáng tiếp.

Nghe mệnh lệnh của đại tướng quân, quân sĩ ai nấy đều ngơ ngác, quân Hán lúc đó chỉ có ba vạn người ngựa, làm sao có thể đánh bại 20 vạn quân Triệu? Hơn nữa còn nói là đánh nhau xong sẽ lại ăn sáng tiếp! Đại tướng quân chắc không nói trong mơ chứ?

Hàn Tín bỏ qua những ánh mắt bán tín bán nghi của các tướng sĩ, ông chỉ huy một vạn binh lính tiến vào cửa ải Tỉnh Hình và đóng trại quay lưng ra sông. Bởi vì đóng trại quay lưng ra sông, nên đây được gọi là trận Bối Thủy. Hàn Tín đã nhìn thấu chiến lược của Trần Dư là muốn tận dụng lợi thế binh lực vượt trội, muốn quét sạch quân Hán chỉ trong một trận, vì vậy Trần Dư sẽ không ra tay nếu không thấy toàn bộ quân Hán. Tình hình quả nhiên đúng như dự đoán của Hàn Tín, một vạn binh sĩ đã vào vị trí một cách êm đẹp.

Sau khi trời sáng, quân Hán rầm rộ tiến vào cửa Tỉnh Hình, bài binh bố trận bên sông, sau đó hướng vào quân Triệu mà khiêu chiến. Trần Dư thấy quân Hán ít người, bản thân mình lại có ưu thế về địa hình dựa núi nhìn sông, nên dẫn quân tinh nhuệ xông ra. Hai bên giao chiến một lúc, Hàn Tín giả vờ thua chạy, trống trận và cờ cũng không kịp mang theo, vứt đầy cả dọc đường. Trần Dư nhìn thấy, càng cảm thấy đang nắm chắc phần thắng, liền hạ lệnh cho cả doanh trại tấn công, muốn bắt sống Hàn Tín. 

Cả hai mươi vạn quân Triệu ồ ạt lao ra khỏi doanh trại. Thế là hai nghìn quân Hán nằm mai phục gần đó đã thừa cơ xông vào, thay hết cờ bằng cờ đỏ của quân Hán.

Bên này, Hàn Tín và một vạn binh sĩ bên  sông hợp lại, ra sức đánh trả quân Triệu. Vì không còn đường rút lui, nên quân Hán liều chết chống trả. Hai bên dằng co hơn nửa ngày mà vẫn không thắng bại. Trần Dư thấy đánh mãi không thắng, định thu quân về trại. Quay đầu nhìn lại thì thấy trong doanh trại đều phấp phới lá cờ của quân Hán, cho rằng quân Hán đã chiếm doanh trại của mình, bỗng chốc lòng quân tan rã. Thế trận đại loạn, quân sĩ chạy trốn khắp nơi. Lúc này, quân chủ lực của quân Hán vốn đã rút lui ra bờ sông, lập tức quay đầu phản công lại, cùng với hai nghìn binh sĩ thừa cơ hai mặt giáp công, quân Triệu đại bại. Trần Dư tử trận, Triệu Vương và Lý Tả Xa bị bắt sống. Lãnh thổ nước Triệu cũng bị quân Hán chiếm đóng.

Sau trận Bối Thủy, các tướng sĩ hỏi Hàn Tín, trong binh thư nói rằng bố trí quân thì cấm kỵ không được quay lưng ra sông, thế mà tướng quân lại hạ lệnh quay lưng ra sông, đẩy quân ta vào hiểm cảnh, tuy đã giành được chiến thắng, nhưng rốt cục là đạo lý gì?

Hàn Tín cười nói: “Trong binh thư có câu: ‘Hãm chi tử địa nhi hậu sanh, trí chi vong địa nhi hậu tồn’, tức là đặt mình vào chỗ chết thì sẽ được sống, đội quân này là đội quân non trẻ, vì vậy chỉ có thể đưa họ vào nơi phải chết, để mọi người đều vì sự sinh tồn của riêng mình mà chiến đấu. Nếu không, khi vừa khai chiến, họ sẽ mạnh ai nấy chạy, đội hình tan rã.” 

Khi đó mọi người mới biết Hàn Tín là một cao thủ dùng binh, biết kết hợp chiêu mới lạ với chính thống, áp dụng linh hoạt. Đây chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “Bối thủy Nhất chiến.”

Hàn Tín vô cùng khâm phục kiến ​​thức của Quảng Vũ tướng Quân Lý Tả Xa. Khi Lý Tả Xa bị đưa đến doanh trại quân Hán, Hàn Tín đã đích thân cởi trói cho ông và xin tha tội, rồi mời ông ngồi hướng đông, còn mình thì giống như học trò ngồi ở phía tây, xin được hỏi về sách lược tấn công nước Yên và nước Tề. Lý Tả Xa khiêm nhường nói: “‘Một tướng đã bại trận, không được bàn về dũng cảm. Một đại phu đã mất nước, không có tư cách mưu tính nữa.’ Tôi là tù nhân trong tay ông, có tư cách gì để bàn mưu kế quân sự với ông.”

Hàn Tín vội trả lời: “Vào thời Xuân Thu, Bách Lý Hề trước làm quan nước Ngu, về sau nước Ngu bị diệt, ông được Tần Mục Công dùng năm tấm da dê chuộc tội, trở thành quan Đại phu nước Tần, giúp Tần Mục Công thực hiện được mưu lược vĩ đại là bá chủ chư hầu. Cũng không phải Bách Lý Hề ngu muội khi ở bên nước Ngu, và trở thành tài năng khi đến nước Tần, cũng không phải ông ta không hết mình vì nước Ngu và tận tâm hơn với nước Tần, mà vì quân vương nước Ngu không muốn nghe theo lời khuyên của ông ta. Nhưng Tần Mục Công lại tiếp thu những diệu kế của ông ấy. Nếu như Trần Dư nghe theo kế sách của ngài, thì Hàn Tín tôi đã trở thành tù nhân rồi. Chính vì hắn không sử dụng kế sách của ngài, nên mới thua tôi, và tôi mới có cơ hội để xin ngài chỉ bảo.

Lý Tả Xa thấy Hàn Tín nói thật lòng thật dạ như vậy thì rất cảm động, phân tích kỹ càng tình thế hiện tại rằng: “Kẻ trí lo một nghìn cái, ắt có một cái hỏng, kẻ ngu lo một nghìn cái, ắt có một cái được. Thành An Quân Trần Dư cũng là người đánh trận từ lâu, lần này lại tự phụ cho rằng có kế sách vẹn toàn, lỡ tay một cái, kết quả là quân bại thân vong. Tướng quân, ngài đã bắt được Ngụy Vương Báo làm tù binh và bắt sống được Hạ Thuyết, chỉ trong một trận mà hạ được Tỉnh Hình, chỉ trong một ngày tiêu diệt 20 vạn quân Triệu, vang danh trong nước, uy chấn thiên hạ. Đây là lợi thế của tướng quân”.

Tuy nhiên, quân đội đã mệt mỏi rồi, e rằng khó đánh liên tục, đây chính là điểm yếu của tướng quân. Nếu chúng ta để cho đội quân kiệt này đi tấn công nước Yên, khi mà họ đang thành vững quân mạnh, thì khó có thể đánh nhanh thắng nhanh. Còn như đánh nhau dài ngày mà cũng không nắm chắc phần thắng, tinh thần binh lính sẽ không tránh khỏi thất vọng, lương thảo cung cấp cũng sẽ gặp vấn đề.

Một nước Yên nhỏ bé mà đánh lâu không bị hạ, thì nước Tề lớn mạnh hơn nước Yên càng không dễ khuất phục. Cách tốt nhất là án binh bất động, trước hết phải vỗ về nước Triệu, khao thưởng ba quân, nghỉ ngơi dưỡng sức. Đợi sau khi hai nước Triệu, Đại ổn định, thì đưa quân tiến lên phía bắc, thẳng tiến đến nước Yên. Khi đại quân áp sát biên giới, thì cử người giỏi thuyết khách ở phía trước binh sĩ kêu gọi họ đầu hàng, nói rõ thiệt hơn, với danh tiếng hiển hách của tướng quân, nước Yên không dám không hàng. Sau đó, hãy đem uy thế đó để thuyết phục nước Tề, nước Tề chắc chắn sẽ xem chiều gió mà quy thuận.

Hàn Tín nghe xong tấm tắc tán thưởng, liền lập tức sai sứ sang nước Yên, đưa thư cho Yên vương, nói rõ lợi hại và khuyên nên quy hàng. Yên Vương khiếp sợ trước uy danh của Hàn Tín, quả nhiên công nạp và đầu hàng, bỏ Sở theo Hán, tạo thành câu thành ngữ “thước thư hàng Yên” được thiên cổ ca ngợi. 


Có thể bạn quan tâm:

Bình luận

{"email":"Email address invalid","url":"Website address invalid","required":"Required field missing"}