Xuân thu Chiến quốc (53) Truyền kỳ Bách Lý Hề, tướng quốc lừng lẫy của Đại Tần

Tác giả: Thiên Phong | Cập nhật: 08/05/2024
Danh mục: Huyền Sử

Bách Lý Hề bị người Sở bắt làm nô lệ, khi đó Tần vương biết được tài năng của ông, nên đã dùng 5 tấm da dê để chuộc về. Từ đó ông có cơ hội phát triển tài năng, giúp xây dựng nước Tần. Bách Lý Hề còn được gọi với cái tên là Ngũ Cổ Đại Phu. Từ “Ngũ cổ” có nghĩa là 5 tấm da dê.

Bách Lý Hề là người đất Uyển của nước Sở, nay thuộc thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Thời trẻ, Bách Lý Hề rất nghèo, đến 30 tuổi mới kết hôn. Thê tử của ông là Đỗ thị. Sau này, vì gia đình thực sự quá nghèo, thê tử ông mới nói với ông rằng: “Tướng công phải ra ngoài tìm cơ hội để thi triển tài năng”. Lúc đó, trong nhà không có đồ ăn, vợ ông đem con gà mái duy nhất ra giết thịt, rồi dỡ cánh cửa nhà xuống, bổ làm củi, hầm gà để cho Bách Lý Hề ăn một bữa no nê, sau đó tiễn ông lên đường.

Đầu tiên, Bách Lý Hề đến nước Tống, sau đó đến nước Tề. Bởi vì ông không có người tiến cử, nên thất vọng, buồn bã vô cùng. Vì hoàn cảnh quá khó khăn nên ông đã xin ăn ở nước Tề. Khi đó, ông gặp một người là Kiển Thúc. Kiển Thúc nói chuyện với Bách Lý Hề mới phát hiện ông là một người có tài, thế là Kiển Thúc mới giúp Bách Lý Hề. Nhưng Kiển Thúc cũng rất nghèo, Bách Lý Hề tuy ở nhà Kiển Thúc, nhưng phải nuôi trâu cho người ta. Ông chăm nuôi rất giỏi, nên trâu bò dê cừu đều rất béo tốt. Ông làm một thời gian rồi suy nghĩ, đại trượng phu chẳng lẽ cứ như vậy mãi hay sao, cứ đi chăn trâu mãi sao, nên ra ngoài làm quan để phát huy tàn năng mới đúng chứ. Thế là ông đến nước Ngu. Tài năng của ông được nước Ngu công nhận, do đó ông làm đến chức Trung Đại phu.

Nước Ngu là một quốc gia rất nhỏ, tiếp giáp với nước Tấn. Nước Tấn lại tiếp giáp với nước Quắc. Thời đó, Tấn Hiến công của nước Tấn muốn diệt hai nước nhỏ là nước Ngu và nước Quắc, nhưng hai nước đó lại chi viện lẫn nhau. Ông đánh nước Quắc thì nước Ngu cứu viện, nếu ông đánh Ngu thì nước Quắc cứu viện. Vậy làm thế nào đây? Tấn Hiến công đã nghĩ ra một kế.

Tấn Hiến công đã chuẩn bị vài con ngựa tốt và ngọc quý rất đẹp để tặng cho quân vương nước Ngu. Ông nói với quân vương nước Ngu rằng: “Hiện tại tôi muốn mượn đường của nước Ngu để chinh phạt nước Quắc, tôi đem ngựa quý và bảo ngọc đưa cho ngài, coi như là phí mượn đường”

Vua nước Ngu rất tham lam, thấy ngựa và ngọc thì vô cùng yêu thích, bèn chuẩn bị đáp ứng. Nhưng khi đó, Đại phu Cung Chi Kỳ ngăn cản, không cho quân vương nước Ngu làm chuyện đó.

Cung Chi Kỳ nói: “Mối quan hệ giữa hai nước Ngu và Quắc như môi với răng vậy. Môi hở thì răng lạnh. Nếu quân vương bán rẻ nước Quắc cho nước Tấn mượn đường, thì hễ nước Tấn diệt xong nước Quắc, e rằng Ngu quốc chúng ta cũng khó bảo toàn, nước Tấn cũng sẽ diệt nước Ngu ta mà thôi”.

Nhưng quân vương nước Ngu không nghe Cung Chi Kỳ, vẫn đồng ý cho nước Tấn mượn đường. Nước Tấn sau khi diệt nước Quắc, quay lại diệt luôn cả nước Ngu. Câu chuyện này trở thành một kế trong “36 kế” trong binh pháp, gọi là “mượn đường diệt Quắc”. Sự kiện này xảy ra năm 655 TCN.

Khi Bách Lý Hề muốn đến nước Ngu làm quan, Kiển Thúc đã khuyên ngăn ông rằng: “Hiện nay là thời loạn thế, có rất nhiều nước, do đó ông nhất định phải chọn quân chủ minh hiền mà thờ. Bởi vì thời loạn như vậy, nếu một quân chủ hồ đồ thì ắt có tai họa giáng xuống. Nếu ông đến nương nhờ người hồ đồ thì khi tai họa ập đến quốc gia, chẳng phải là ông cũng gặp đại nạn sao? Ông bị liên lụy, vì ông biết quân chủ hồ đồ nhưng lại nương nhờ vị ấy, đây là bất trí, không lý trí. Nếu ông bỏ đi mà không chịu nạn với quốc vương, đây gọi là bất trung. Cho nên nếu ông chọn quân chủ hồ đồ thì chỉ có hai lựa chọn, là bất trí và bất trung mà thôi”.

Bách Lý Hề trả lời: “Vì tôi quá nghèo, tôi đã có cơ hội ở nước Ngu thì nên nắm lấy cơ hội đó”

Cũng không còn cách nào khác, ông đã đến nước Ngu làm chức Trung Đại phu. Ông cũng từng khuyên vua nước Ngu là đừng cho nước Tấn mượn đường, nhưng quốc vương lại không nghe. Cuối cùng nước Ngu bị diệt, Bách Lý Hề cũng bị bắt giam trong ngục.

Tấn Hiến công nghe nói Bách Lý Hề là người có thực tài, thì đã thả ông ra khỏi ngục rồi thương lượng rằng: “Ngươi có muốn đến nước Tấn làm quan không?”. 

Bách Lý Hề nói: “Tôi đã theo quân vương nước Ngu đã là bất trí rồi, nếu tôi đến nước Tấn làm quan, tức là bỏ nước Ngu, thì chẳng phải tôi thêm tội bất trung nữa hay sao”. Vì vậy Bách Lý Hề cự tuyệt việc đến làm quan ở nước Tấn.

Tấn Hiến công nghe vậy, biết rằng Bách Lý Hề không muốn đến nước Tấn làm quan. Làm thế nào đây? Khi đó nước Tấn có liên hôn với nước Tần. Tấn Hiến công muốn gả con gái cho Tần Mục công, thế là ông lấy Bách Lý Hề làm một trong những của hồi môn để đưa đến nước Tần. Bách Lý Hề thầm nghĩ: “Ta sắp 70 tuổi rồi, đến đó lại phải làm nô bộc, đây là điều ta hoàn toàn không muốn”. Thế là Bách Lý Hề trốn thoát. Sau khi đào thoát, ông nhớ quê nên về nước Sở, thế là ông bị bắt tại đó.

Tần Mục công sau khi lấy con gái của Tấn Hiến công, phát hiện trong lễ vật mang đến thiếu mất cái tên… Bách Lý Hề. Tần Mục công biết Bách Lý Hề là người hiền tài nên không muốn mất đi một người như thế. Do đó, Tần Mục công quyết tâm tìm bằng được Bách Lý Hề. Sau khi phái người điều tra, ông phát hiện Bách Lý Hề đang bị bắt ở nước Sở. Tần Mục công lập tức chuẩn bị rất nhiều của cải để chuộc Bách Lý Hề.

Bấy giờ, thủ hạ của Tần Mục công là một Đại phu tên là Công Tôn Chi, đã có kiến nghị rằng: “Ngài không thể trả nhiều tiền để chuộc Bách Lý Hề. Bởi vì nước Sở còn chưa biết ông ấy là hiền tài. Hễ ngài trả nhiều tiền chẳng phải người nước Sở sẽ biết chuyện đó sao? Người nước Sở sẽ không giao nộp ông ấy cho ngài đâu. Ngài nên dùng giá của nô lệ bình thường để chuộc Bách Lý Hề”.

Thế là Tần Mục công bèn lấy năm tấm da dê màu đen đưa đến nước Sở, truyền lệnh rằng: “Ta có một tên tù nhân đào thoát, hy vọng có thể dẫn độ tên ấy về nước”

Khi đó, Bách Lý Hề đã bị bắt ở Sở một thời gian, nhưng ông nhanh chóng làm thân và quen biết được rất nhiều người, ông có quan hệ rất tốt với nhiều người nước Sở, nên khi mọi người nghe thấy Bách Lý Hề bị bắt về nước Tần, có người đã khóc lớn. Nhưng Bách Lý Hề lại cười nói: “Lão già giống như tôi đây mà Tần Mục công lại mang đến những năm tấm da dê để chuộc. Tôi vốn dĩ không đáng đến… năm tấm da dê. Ông ấy muốn tìm tôi để giúp ông ấy đó thôi”. Năm tấm da dê còn được gọi là “Ngũ cổ”. Vậy nên sau này Bách Lý Hề được gọi là “Ngũ Cổ Đại phu”.

Bách Lý Hề mỉm cười trên xe chở tù nhân, hướng về nước Tần. Sau khi đến nơi, Tần vương nhìn thấy Bách Lý Hề thì thất vọng nói: “Chao ôi, ông đã 70 tuổi rồi. Thật là quá già!”. 

Bách Lý Hề trả lời: “Năm đó khi Chu Văn Vương đến sông Vị thủy tìm Khương Tử Nha, rồi bái ông ấy làm thầy, thì lúc ấy Khương Tử Nha đã 80 tuổi rồi. Hiện tại tôi mới có 70 tuổi, ngài lệnh tôi lên núi để bắt hổ như tráng sĩ thì tôi không làm được. Còn như việc đưa ra chủ ý, định ra kế sách thì tôi làm được, tôi lại còn trẻ hơn Khương Tử Nha đến 10 tuổi ấy chứ!”.

Tần Mục công cảm thấy Bách Lý Hề rất thú vị, bèn hỏi: “Đối với sự phát triển của nước Tần, ông có định hướng gì không?”. 

Bách Lý Hề đã nói rất đúng chỗ mà Tần Mục công quan tâm. Ông nói rằng: “Hiện nay đô thành nước Tần tại đất Ủng. Vùng đất này còn lưu lại dấu tích năm xưa Chu Văn Vương và Chu Vũ Vương khởi binh phạt Trụ. Đây là nơi “núi như răng chó, đất như rắn trườn”, chính là nơi phong thủy rất tốt, là nền móng của nghiệp bá vương. Ngài có thể chiếm được một mảnh đất có vương khí tốt như thế này, chính là nền tảng để nước Tần phát triển mạnh trong tương lai. Phía tây của nước Tần là nước của tộc Nhung. Thứ nhất, sức chiến đấu của họ rất yếu, sức sản xuất cũng không cao, binh khí không tốt lắm. Thứ hai, đô thành của họ nhỏ, nên chúng ta có thể chiếm dần dần. Chiếm đến đâu, chúng ta có thể canh tác đến đó, đồng thời binh sĩ và bách tính của nước họ có thể làm binh sĩ của nước Tần. Như vậy, chúng ta có đất, có nhân khẩu, chờ đến một ngày Trung Nguyên có biến, chúng ta có thể vượt qua Hoàng Hà, một bước có thể xưng bá Trung Nguyên”.

Những câu này như điểm trúng chỗ ngứa của Tần Mục công. Tần Mục công vui mừng nói: “Ông quả là người có thực tài! Ta phong ông tước vị Thượng khanh, đây là tước vị cao nhất”. Thượng Khanh tương đương với Tể tướng, đây là chức vị dưới một người, trên vạn người.

Bách Lý Hề trả lời: “Tôi không cần tước vị này. Tôi có một người bạn tên là Kiển Thúc, tài năng ông ấy còn gấp 10 lần tôi. Tôi hy vọng ngài có thể mời được Kiển Thúc về, tôi nguyện ý làm trợ thủ của ông ấy”

Thế là Tần Mục công mời Kiển Thúc đến nước Tần. Bách Lý Hề thì vẫn giữ chức Thượng Khanh.

Sau khi Bách Lý Hề làm Tể tướng nước Tần, ông rất giàu sang phú quý. Năm đó, khi Bách Lý Hề rời khỏi nhà, vợ ông là Đỗ thị ở nước Sở, một mình nuôi con trai, nhưng họ sống rất khó khăn. Cả hai mẹ con bèn đến nơi khác xin ăn, sau đó lưu lạc đến nước Tần. Bà nghe nói đến Đại phu Bách Lý Hề của nước Tần, bà muốn xem xem có phải là chồng mình hay không. Nhưng khi Bách Lý Hề di chuyển, ông ngồi trong xe ngựa, nên bà không thể thấy rõ mặt. Sau này, bà nghĩ cách đến tướng phủ, xin làm công việc giặt giũ quần áo. Bà rất chịu khó mà lại hài hước, còn biết ca hát, do đó mọi người đều yêu mến bà.

Có một lần, Bách Lý Hề dùng yến tiệc với khách, Đỗ thị nhân cơ hội đã tiến đến và thưa rằng: “Thiếp có thể chơi cổ cầm và ca hát, liệu thiếp có thể biểu diễn một lần được không?”. 

Bách Lý Hề đồng ý. Đỗ thị bèn đến thương lượng với nhạc công, họ đưa cho bà cổ cầm. Đỗ thị tấu lên một khúc nhạc thê lương sầu thảm. Còn các nhạc công thì thấy bà chơi giỏi hơn họ rất nhiều.

Sau đó, Đỗ thị bắt đầu hát một bài, nội dung đại ý như sau: “Bách Lý Hề, Ngũ Cổ Đại phu. Chàng còn nhớ lúc rời quê hương, thiếp đã kéo vạt áo của chàng mà khóc… Khi đó nhà chúng ta không có gì ăn, thiếp bổ cửa làm củi, hầm gà mái… Giờ đây chàng làm Tể tướng nước Tần, thân mặc áo gấm, nhưng thiếp vẫn làm mướn, giặt đồ cho người ta… Hiện tại chàng phú quý rồi, chàng có còn nhớ người vợ nghèo năm ấy không…”.

Bách Lý Hề nghe xong bài hát liền giật mình. Ngoài vợ ra, thì làm gì có ai biết được rõ ràng chuyện năm xưa khi ông ly hương chứ? Ông bèn gọi người phụ nữ đến trước mặt, chú ý nhìn rõ lại, thì quả nhiên thấy đây là thê tử của mình. Hai vợ chồng ba mươi mấy năm mới gặp lại, hai người ôm nhau mà khóc. 

Bách Lý Hề hỏi thê tử: “Thế con trai chúng ta đâu?”. 

Bà đáp: “Con trai đi săn bên ngoài rồi”. 

Bách Lý Hề tìm con trai, rồi gia đình họ đoàn tụ, sống cùng nhau ở trong tướng phủ. Tần Mục công sau khi nghe tin đó lập tức chúc mừng gia đình họ đã đoàn viên, đồng thời thưởng cho họ một ít tiền. Con trai ông sau này trở một vị đại tướng, tên là  Mạnh Minh Thị.

Sau khi Bách Lý Hề làm Tể tướng nước Tần. Tần Mục công đã từng “ba lần giúp nước Tấn chỉ định quốc vương”. Vì ban đầu quốc vương nước Tấn là Tấn Hiến công có 5 người con trai, 2 người trong đó là Di Ngô và Trùng Nhĩ, Trùng Nhĩ là anh còn Di Ngô là em. Trùng Nhĩ chính là Tấn Văn công, sau này là một trong Ngũ bá thời Xuân Thu. Sau khi Tấn Hiến công tạ thế, nước Tấn phát sinh nội loạn, chi tiết ở đây chúng ta không đề cập đến, chỉ nói những nét cơ bản. Khi đó, Di Ngô thỉnh cầu Tần Mục công để được làm quân vương nước Tấn.

Điều kiện ban đầu mà Di Ngô đưa ra là: “Nếu ngài cho tôi làm quốc vương nước Tấn, tôi sẽ cắt toàn bộ 8 thành trì vùng phía tây sông Hoàng Hà giao cấp cho ngài”. 

Tần Mục công nghe vậy liền đồng ý. Tần Mục công ủng hộ Di Ngô, và Di Ngô nhận được sự trợ giúp của nước Tần, ông trở thành vua nước Tấn. Di Ngô chính là Tấn Huệ công. Sự kiện này xảy ra vào năm 650 TCN.

Sau khi Di Ngô làm vua nước Tấn thì liền bội ước. Vì sao vậy? Ông ta cho rằng khi giao ước với Tần Mục công, thì ông chỉ là tên thất phu mà thôi, không có chút đất nào, nói chi đến 8 thành trì. Nhưng sau khi lên làm vua nước Tấn, ông lại không nỡ cắt 8 thành trì đó để giao cho Tần Mục công. Di Ngô là người không có có tín nghĩa. Tần Mục công khi đó cũng khó chịu, nhưng vẫn nhẫn nhịn, cũng không lấy cớ để phát binh.

Tấn Huệ công sau khi lên ngôi thì đã giết rất nhiều đại thần và làm nhiều chuyện bất nghĩa. Tấn Huệ công làm vua được 4 năm, ở nước Tấn đã xảy ra thiên tai, bách tính nước Tấn lâm vào nạn đói. Thế là Tấn Huệ công đến nước Tần để mượn lương thực, mong muốn cứu tế người dân.

Khi đó, có một tướng quân nước Tần tên Phi Báo, đã nói với Tần Mục công rằng: “Không thể cho Tấn Huệ công mượn lương thực, vì ông ta là con người không có tín nghĩa. Chúng ta nên nhân cơ hội này phát binh, đánh ông ta”

Bách Lý Hề nghe xong bèn đứng lên nói: “Quân vương nước Tấn đắc tội với đại vương chúng ta, nhưng bách tính của nước Tấn có tội gì kia chứ? Nếu họ gặp nạn đói, chúng ta nên cứu tế mới phải”.

Tần Mục công cũng là bậc vương giả có phong thái cốt cách, ông nghe theo kiến nghị của Bách Lý Hề. Thế là ông mở lớn kho lương, từ 3 con đường thủy của sông Phần thủy, Vị thủy và Hoàng Hà, vận chuyển lương thực từ đô thành của nước Tần đến đô thành của nước Tấn. Đồng thời trên bờ cũng vận chuyển lương thực. Xe, thuyền, trên 3 con đường thủy và đường bộ, lũ lượt nối đuôi nhau dài đến 800 dặm, đem lương thực từ nước Tần sang nước Tấn. Lịch sử gọi đây là “chèo thuyền cứu tế” – một câu chuyện rất nổi tiếng, cũng rất cảm động. Nước Tần đã cứu sống rất nhiều người dân nước Tấn khỏi nạn đói.

Tần Mục công tặng nhiều lương thực, bỏ công sức lớn như thế, lại không nhớ hiềm khích năm xưa với Tấn Huệ công. Đến năm sau, nước Tần gặp thiên tai, trong khi đó nước Tấn lại mùa màng bội thu. Thế là Tần Mục công phái người đến nước Tấn để thương lượng với Tấn Huệ công răng: “Năm nay nước chúng tôi gặp thiên tai, xin mượn lương thực của nước Tấn, ít nhất là bằng số lương thực mà năm ngoái nước Tấn mượn”. 

Tấn Huệ công thấy nước Tần gặp thiên tai thì nói với quần thần rằng: “Đây là cơ hội tốt để đánh hạ nước Tần”.

Qua lời nói này, ta thấy Tấn Huệ công là người lấy oán báo đức, làm chuyện điên rồ. Thế là Tấn Huệ công xuất binh tấn công nước Tần. Tần Mục công nổi giận, lập tức khởi binh nghênh chiến. Hai bên đánh nhau ở Hàn Nguyên. Đây cũng là trận chiến rất nổi tiếng trong lịch sử, gọi là “trận chiến Hàn Nguyên”.

Trong trận chiến Hàn Nguyên, Tần Mục công khi đó binh mỏng lương ít, nên giai đoạn đầu gặp bất lợi. Ông bị binh sĩ nước Tấn bao vây rất chặt. Lúc Tần Mục công rơi vào tình cảnh vô cùng nguy hiểm, đột nhiên xuất hiện người 300 dân thôn dã, còn gọi là “dã nhân”, đến cứu ông. 

Nhưng “dã nhân” không phải là chỉ người hoang dã, mọi rợ. Mà thời đó, người ở trong thành được gọi là “quốc nhân”, còn người sống ngoài thành gọi là “dã nhân”. 300 người đó võ nghệ cao cường, chạy nhanh như bay, tay cầm đại đao xông vào quân Tấn, gặp được ai thì chém người ấy, khí thế áp đảo quần hùng. Chỉ có 300 người mà đã làm đại quân của nước Tấn kinh hồn bạt vía, lập tức lui binh. Quân Tấn bị đẩy lui, Tần Mục công nhờ vậy mà được cứu.

Tần Mục công hỏi họ là ai, những dân thôn dã đó trả lời rằng họ đến để báo ơn. Vốn là mấy năm trước, Tần Mục công mất vài con ngựa rất quý, thế là ông phái người đi tìm, thì phát hiện những con ngựa đã bị những người dân thôn dã này ăn thịt. 

Khi đó, vị quan kia đã bắt những người này lại, định dùng hình phạt với họ. Nhưng Tần Mục công cản lại và nói: “Ta sao có thể vì con ngựa mà giết nhiều người như vậy chứ. Ta nghe nói ăn thịt ngựa quý mà không uống rượu sẽ sinh bệnh. Cho nên, hãy đem rượu ngon để cho họ uống”. 

Tần Mục công không những không giết những người này, mà còn đưa thêm rượu ngon cho họ uống.

Những người dân thôn dã biết được sự việc đó thì vô cùng cảm động. Họ nghe nói Tần Mục công bị quân Tấn bao vây, nên đến cứu để báo đáp ân tình năm xưa, họ không quản nguy hiểm mà xông pha nơi trận mạc. Cách cư xử có đạo đức này đã giúp Tần Mục công có được con đường lui cho mình. 

Những người dân thôn dã này quả thật là võ nghệ cao cường, sau khi cứu được Tần Mục công, họ còn bắt được Tấn Huệ công. Tần Mục công muốn tặng thưởng, nhưng họ không nhận, chỉ bái tạ mà rút đi.

Tần Mục công đã đối đãi với kẻ lấy oán báo ân là Tấn Huệ công như thế nào? Ông không giết hại, mà lại dùng lễ của chư hầu để tiếp đãi Tấn Huệ công, sau đó thả Tấn Huệ công về nước. Tấn Huệ công về nước, cảm thấy vô cùng hổ thẹn, không còn mặt mũi nào nữa, thế là ông cắt 8 thành trì của vùng Tây Hà để giao cho Tần Mục công.

Tần Mục công lấy được Tây Hà là dựa vào “lấy đức vỗ về, chứ không phải chinh phạt”, ông đã dùng đức để cảm hóa, mà giành được thắng lợi. Còn sau này, Thương Ưởng lấy Tây Hà là dùng mưu kế với Công tử Ngang của nước Ngụy. Bách Lý Hề khuyên quân chủ là Tần Mục công, hãy dùng phong thái của bậc vương giả để đối đãi, do đó Bách Lý Hề cùng Tần Mục công đi theo vương đạo chứ không phải bá đạo như của Thương Ưởng.

Từ bốn câu chuyện về Bách Lý Hề, chúng ta có thể thấy được nhân phẩm của ông. Ông thấy rõ được kế “mượn đường diệt Quắc” của Tấn Hiến công, đây gọi là Trí. Lúc nước Ngu bị diệt, thà chấp nhận làm tù binh chứ không chịu làm quan ở nước Tấn, đây gọi là Trung. Ông tiến cử người bằng hữu có thực tài là Kiển Thúc, hơn nữa còn đặt Kiển Thúc lên trên cả bản thân, nghĩ đến đại cục quốc gia chứ không phải lợi ích cá nhân cho riêng mình, đây gọi là Nghĩa. Khi giàu có, ông không bỏ người vợ tào khang, ở tướng phủ mà nhận vợ, không quên những gì thê tử đã làm cho mình, sau này ông lại khuyên Tần Mục công cứu tế bách tính nước Tấn, đây gọi là Nhân. Hơn nữa, cuộc sống của ông cũng thanh đạm tiết kiệm, chính là giống như Triệu Lương nói: “ra ngoài trời nóng cũng không mang ô, lúc mệt cũng không ngồi trên xe nghỉ”.

Dưới sự phò tá của Bách Lý Hề, Tần Mục công đã dần thu phục được tộc người Nhung, truyền bá văn hóa Trung Nguyên đến tây vực. Đồng thời, Tần Mục công cũng liên minh với họ, làm cho quốc lực tăng cường. Ông lại dựa vào đức mà vỗ về dân chúng, lấy được vùng đất quan trọng là Tây Hà, làm biên giới nước Tần trải rộng về phía đông, đến tận lưu vực Hoàng Hà. Tất cả những điều đó đã đặt định cho nước Tần sau này có thể thống nhất thiên hạ.

Quay lại thời kỳ Chiến Quốc, ta biết rằng Thương Ưởng nhân nhân lúc nước Ngụy thất bại dưới tay nước Tề để chiếm Tây Hà. Vậy nước Ngụy đã thất bại như thế nào và cuộc chiến với nước Tề ra sao. Chúng tôi sẽ kể tiếp câu chuyện trong tập sau, cảm ơn bạn đã theo dõi video này, xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại.


Có thể bạn quan tâm:

Bình luận

{"email":"Email address invalid","url":"Website address invalid","required":"Required field missing"}